Kính thưa quý thính giả, một nhà cách mạng nổi tiếng thanh liêm và nhân ái, hết lòng vì dân vì nước, quyết tâm cứu nước bằng trái tim đầy máu nóng. Các tác phẩm của ông ngoài phần văn chương trác tuyệt và tâm huyết đối với đất nước, nó còn là một hệ tư tưởng cao sâu thực tiển, có viễn kiến chính trị đặt nền tảng trong công cuộc cách mạng phục hưng văn hóa cho dân tộc. Qua chuyên mục Danh Nhân Nước Việt tuần này, chúng tôi xin gửi đến quý thính giả bài “Học Giả Lý Đông A” của Việt Thái qua giọng đọc của Minh Nguyệt để kết thúc chương trình phát thanh tối hôm nay.
Học Giả Lý Đông A
Việt Thái
Học giả Lý Đông A tên thật là Nguyễn Hữu Thanh, sinh ngày 1/11/1920 tại tỉnh Hà Nam. Thân sinh là cụ Nguyễn Chi Phương. Năm 3 tuổi Nguyễn Hữu Thanh đọc thông thạo chữ Nho và chữ Quốc ngữ. Năm 4 tuổi được thầy giáo Khuê dạy kèm và được thầy ngợi khen là Thần Đồng với lời lẽ sau: “Anh ấy thực là một thần đồng , trong vòng non 8 tháng đã học hết chữ của tôi”.
Nguyễn Hữu Thanh thông hiểu về Dịch Lý, Phật Học và Sử Việt… lúc 16 tuổi. Theo lời kể, ông phát nguyện noi gương Anh Hùng Dân Tộc dâng hiến trọn đời cho cuộc cách mạng cứu nước ở lứa tuổi chưa tròn 17 và lấy bút hiệu Lý Đông A.
Năm 1942, Lý Đông A đến thư viện Liễu Châu (Trung Hoa) để kiểm lại các sách viết về triết học, lịch sử, xã hội Đông Phương, khoa học Tây Phương và nghiên cứu địa lý Trung Hoa, đồng thời khảo sát thêm về lịch sử và nền văn minh Việt tộc.
Tại đây, ông bắt đầu viết sách trong bộ “Đại Việt Duy Dân Đại Cương Thảo Án Quốc Sách Toàn Khoa”. Sách ông viết về chủ thuyết Duy Dân Nhân Chủ nhưng phần lớn đã bị thất lạc. Ông dùng nhiều từ ngữ Việt – Nho, ý tưởng xúc tích và trình bày với dạng thức đặc biệt. Ông khai triển văn hóa và truyền thống dân tộc kết hợp với các suy tư về xã hội để lập thuyết, lấy con người làm chính, triết lý của chủ thuyết này có 3 biện chứng đưa đến một quan điểm thống nhất về con người:
– Vũ trụ: duy nhiên, vô nguyên.
– Nhân loại: duy nhân, nhất nguyên.
– Dân tộc: duy dân, đa nguyên tương đối.
Năm 1940, ông làm ủy viên chính trị cho Phục Quốc Quân, cánh quân của Việt Nam Quang Phục Hội. Ông cùng với Ðoàn Kiểm Ðiểm và Trần Trung Lập chỉ đạo cuộc khởi nghĩa ở Lạng Sơn. Khởi nghĩa thất bại, ông trốn thoát sang Trung Hoa, tiếp tục liên lạc với các nhà cách mạng Việt Nam thuộc nhiều phe phái.
Ngày 1/1/1943, ông thành lập và làm Tổng thư ký Đại Việt Duy Dân Cách Mạng Đảng, đấu tranh chống Pháp. Trong thời gian quân Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc, đảng này tìm cách gây cơ sở ở Hòa Bình, xây dựng Hòa Bình thành căn cứ và liên kết với một số lang đạo chống nhà cầm quyền. Do vậy, cơ sở Đại Việt Duy Dân phát triển nhanh chóng bao gồm một số quận huyện của tỉnh Hà Đông, Ninh Bình, Hà Nam, Hòa Bình.
Đảng Đại Việt Duy Dân chọn Mường Diềm làm căn cứ chính, đảng Đại Việt đã tích cực xây dựng lực lượng vũ trang bằng cách đưa thành viên từ miền xuôi và tập hợp thành viên tại địa phương, thiết lập được một số đơn vị và mở lớp huấn luyện quân sự.
Giữa năm 1946, đảng Đại Việt bị Việt Minh tấn công tại Hà Nội và các tỉnh ở vùng đồng bằng. Đảng trưởng Lý Đông A phải rời Hà Nội về Gia Viễn (Ninh Bình). Tại đây, ông lại bị truy đuổi, phải chạy lên Hòa Bình và về vùng Mường Diềm.
Trong thế bị truy đuổi, dồn ép, đảng Đại Việt dựa vào sự giúp đỡ của các lang đạo thành lập một vài đơn vị vũ trang dự định đánh chiếm Lương Sơn, Lạc Sơn, Chợ Bờ, Suối Rút, sau đó tiến đánh chiếm thị xã Hòa Bình. Lấy Hòa Bình làm bàn đạp chiếm Sơn La, xây dựng Hòa Bình – Sơn La thành một căn cứ rộng lớn ở miền núi rừng Tây Bắc để chống lại nhà cầm quyền. Nhưng kế hoạch này bị Việt Minh phát giác.
Tỉnh ủy Hòa Bình đưa lực lượng vũ trang, công an tiêu diệt các toán vũ trang của Đại Việt Duy Dân, bắt sống các thành phần lãnh đạo tại Bến Chương và ông bị Việt Minh giết chết tại nơi này.
Các tác phẩm của ông được xuất bản như: Đạo Trường Ngâm, Huyết Hoa, Chu Tri Lục, Duy Nhân Cương Thường, Thiết Giáo, Việt Sử Thông Luận, và một số tài liệu khác. Những tài liệu này đã được thế hệ sau dùng làm tài liệu học tập, thực hành tu dưỡng và lập chí.
*****
Học giả Lý Đông A được kể là một trong số ít triết gia Việt Nam có tinh thần cách mạng nhân bản. Ông không những là nhà chính trị đạo đức, mà còn là một đại thi hào của dân tộc.
Qua tiến trình đấu tranh chống thực dân Pháp và bọn Việt gian Cộng sản, hàng ngàn người yêu nước đã gục ngã vì nền tự chủ của nước nhà, những con người yêu nước thương nòi chống Pháp và chống Cộng vì tự do cho đồng bào chứ không dựa vào chủ thuyết ngoại lai như đảng Cộng sản Việt Nam.
Thời gian đó đảng CSVN muốn độc quyền lãnh đạo, dựng ra Mặt trận Việt Minh để thanh toán, thủ tiêu các nhà ái quốc không theo đường lối và chủ trương của đảng cộng sản, như nhà ái quốc Hồ Văn Ngà, giáo chủ Huỳnh Phú Sổ, học giả Lý Đông .v.v. Hành động này đã ghi thêm một tội ác của đảng Cộng sản VN vào trong lịch sử ô nhục của dân tộc.