TCYN31082017
Trần Hoài Thư tên thật Trấn Quí Sách, sinh năm 1942 tại Đà Lạt. Tuổi thơ sống ở thành phố Nha Trang. Sau theo học Quốc Học Huế, đại học Sài Gòn. Từ năm 1964-1966 là giáo sư trường trung học Trần Cao Vân tỉnh Quảng Tín.
Năm 1967, ông nhập ngũ, rồi làm phóng viên chiến trường, đã từng bị thương 3 lần.
Sau 30 tháng 4 năm 1975, ông phải ở tù cộng sản hơn 4 năm. Năm 1980 Trần Hoài Thư vượt biển, định cư tại Mỹ.
Ông khởi sự viết văn từ năm 1964. Truyện ngắn đầu tay Nước Mắt Tuổi Thơ đăng trên tạp chí Bách Khoa Sài Gòn. Ông cũng cộng tác với Văn, Văn Học, Đời, Bộ Binh, Thời Tập, Vấn Đề, Khởi Hành, Ý Thức…
Ông đã cho xuất bản nhiều tác phẩm giá trị, như “Những vì sao vĩnh biệt”, “Ngọn cỏ ngậm ngùi”, “Mặc niệm chiến tranh”, “Tản mạn văn chương”,”Thơ Trần Hoài Thư”, “Ngày vàng”, “Xa xứ”, “Vịn vào lục bát”.
Thơ văn Trần Hoài Thư đủ thể loại. Văn thì có tạp bút, tập truyện, tự truyện. Còn thơ thì đa số là Thơ Mới 7-8 chữ, nhưng nổi bất nhất là thơ lục bát, với sức đánh động sâu xa, như Đỗ Trường đã thổ lộ:
“ Khi nhận được thi tập Vịn Vào Lục Bát, tôi đã đọc ngay, đọc một mạch. Đọc rồi, đâu đó, vẳng lên tiếng thét, sắc nhọn như mũi khoan xoáy thủng hồn người, xuyên thủng 143 trang sách trước mặt…”
Trước hết, qua nhiều bài thơ mới, Trần Hoài Thư đã trải lòng ra với đất nước qua những trăn trở của dân tộc về chiến tranh, đến hình ảnh những cuộc hành quân hiểm nghèo, và niềm vui của những ngày phép ngắn ngủi.
Cảm thức chiến tranh thì thật ngậm ngùi. Là một chiến sĩ với tinh thần chiến đấu kiên cường, nhưng cũng như bao người khác, tác giả đã không dấu nỗi cảm thức chán ghét chiến tranh.
Chiến tranh đưa tuổi trẻ đi vào ngõ cụt như thể bản án tử hình treo vào tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Bản án tử hình đó được hiểu như số phận hẩm hiu của người trai thời chiến, phải lao vào lửa máu, hận thù, tù ngục và cõi chết, ít khi thấy được niềm vui:
Thế hệ chúng tôi chỉ thấy toàn lệ máu
Chưa bao giờ thấy được một ngày vui
Thời chiến giày saut, lao vào cõi chết
Hòa bình phận tù, trâu ngựa khổ sai
Biết mình phải lao vào cõi chết, nhưng thân trai vẫn phải làm tròn sứ mệnh bảo vệ tổ quốc, và Trần Hoài Thư đã “xếp bút nghiên theo việc đao cung”, lên đường hành quân, xông vào lửa khói:
Tôi qua đèo xám mây mờ núi
Thương về đâu một lũ sáo rừng
Hôm qua đồi ngập hàng trăm xác
Đạn pháo đào sâu bãi chiến trường
Hình ảnh người chinh phu ngày nào “xông pha gió bão trăng ngàn, tên reo đầu ngựa giáo lan mặt thành”, nay lại tái diễn trên chiến trường miền Nam:
Có ai dưới lớp mồ hoang dã
Nằm xuôi chân mắt mở trợn trừng
Chiều nay sao mọc về phương bắc
Sao ruột lòng vắt đỏ phương nam
Ngày đêm đối diện với tử thần nơi tiền tuyến, người chiến sĩ phải tận hưởng những ngày phép thật ngắn gủi mà qúy giá, bên em gái hậu phương, với ly cà phê nóng:
Quán sớm cô hàng nhăn nếp lụa
Tóc còn vương vít lòng chiếu chăn
Nước sôi reo ấm gian nhà chật
Bếp lửa hồng. Gió tạt. Mùa đông
Năm giờ. Hết phép chờ xe hốt
Từ biệt cô từ biệt bạn bè
Từ biệt một ngày trai phóng đãng
Mai về trên ấy thiếu cà phê
Những vần thơ mới nói trên đã chuyên chở cảm thức của Trần Hoài Thư về cuộc chiến, vẫn được coi là cuộc chiến tranh ý thức hệ quốc cộng mà có người hiểu sai là cuộc nội chiến. Nhưng phải đồng ý với Đỗ Trường rằng, chính thơ lục bát mới là nét son của Trần Hoài Thư. Qua vần điệu lục bát của anh, người ta thầm nghe tiếng thỏ thẻ của con tim, nhịp thở của buồng phổi, tiêu biểu như bài thơ “Dường Như” đã thốt ra tiếng thì thào với nỗi cô đơn tuyệt đối khi nhìn vợ đột qụy:
Dường như tôi sắp quị rồi
Nghe chăng tiếng thét vỡ màng nhĩ tôi
Này em, em đừng bỏ tôi
Này thơ, xin đừng bỏ tôi một mình
Tôi cần thơ, tôi cần mình
Sao mình cứ mở mắt nhìn ở đâu…
Bên cạnh nỗi sợ cô đơn vì sợ mất người yêu, Trần Hoài Thư còn gói ghém tâm thức lưu vong trong những vần lục bát thật truyền cảm. Tiếng mưa rơi ngoài trời cũng là tiếng mưa rơi trong lòng người xa xứ:
Ở đây đất lạ quê người
Mấy mươi năm cũng một đời xứ xa
Ngày ở Mỹ đêm quê nhà
Có khi thức giấc, bên ngoài, trời mưa!
Buồn ơi lạnh khép chăn thưa
Nghe như lời vọng quê nhà: Tiếng mưa !!!”
Thế rồi, trước nỗi sợ mất em, mất thơ, và mất cả quê hương, Trần Hoài Thư chỉ còn níu lấy một chút gì còn lại thật qúy giá. Đó là tình mẹ, tình cha và tình bạn. Tình mẹ thì thật mặn nồng, như gà con nương tựa dưới cánh mẹ tháng ngày:
Lan can mẹ, mẹ khom lưng
Để con được vịn, khỏi cần nhón chân
Đứng bên mẹ, bé vô cùng
Thấy như tay mẹ sẵn sàng dẫn con…
Còn tình cha cũng không kém tha thiết, như niềm hãnh diện vô bờ của con trong cuộc lữ hành trần thế:
Lan can ba, ba thẳng lưng
Ba dạy con, chân đạp bùn mà đi
Con nhón chân, con đưa tay
Con vịn ba với cái đầu ngẩng lên !…
Và trải rộng ra tình bạn, những người thề sống chết có nhau:
Lan can bạn – vịn thân tình
Để còn thấy được cuộc đời dễ thương
Chai rượu quí chắc phải buồn
Nếu không có bạn, ai người cụng ly ?
Đẹp nhất là tình em, sáng như trăng rằm, nguồn ơn cứu rỗi, đưa tác giả hồi tâm trở về với chính mình:
Lòng em là cả trăng rằm
Lòng tôi trăng tối như nhằm ba mươi
May nhờ tôi được dựa hơi
Nên lòng cũng nhẹ, ít nhiều hồi tâm
Em là thiên thần. Dựa vào em, Trần Hoài Thư cảm thấy nhẹ nhõm, chan chứa thêm tình mẹ, tình cha, tình bạn. Đó chính là thơ, đặc biệt là thơ lục bát, nhẹ như tiếng tơ trời, như hơi thở của Tình Yêu viết hoa…
Ngô Quốc Sĩ